Kiến trúc độc đáo của đình An Cố sau hàng trăm năm

Kiến trúc độc đáo của đình An Cố sau hàng trăm năm

Đến nay số lượng đình nguyên vẹn còn sót lại không nhiều, vì vậy cần bảo tồn giá trị lịch sử dân tộc. Các đình thờ phụng được xây dựng từ xưa có kiến trúc cổ kính trang trọng. Nhắc đến công trình kiến trúc gây ấn tượng với khả năng chạm khắc tinh xảo không thể bỏ qua đình An Cố. Một số kiệt tác điêu khắc đến nay vẫn còn nguyên vẹn mang giá trị lớn. Đến đây, bạn sẽ được tham quan và chiêm ngưỡng nét đẹp cổ kính này cùng hiểu thêm về những câu chuyện thần thoại ngày xưa.

Đình An Cố tuy được xây dựng lâu đời; nhưng vẫn không làm mài mòn được giá trị của nó theo năm tháng. Người dân nơi đây một lòng thờ cúng và tín ngưỡng với hi vọng có một cuộc sống ấm no bình an. Khi đến đây khám phá bạn sẽ hiểu hơn về cuộc sống và lòng hiếu khách của người dân nơi này. Giá trị lịch sử không chỉ nằm ở kiến trúc mà còn ảnh hưởng bởi những câu chuyện đằng sau các sự tích về vị thần Đức Nam Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần được thờ phụng.

Sự tích về ngôi đền An Cố

Sự tích về ngôi đền An Cố

Đình An Cố, xã Thụy An – Thái Thụy là nơi thờ Đức Nam Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần. Với sức chứa vài trăm người, gây ấn tượng với các chạm trổ công phu, tinh xảo; Đình An Cố cùng với đình Trà Cổ (Quảng Ninh) và đình Hàng Kênh (Hải Phòng) là ba ngôi đình cổ và lớn nhất vùng ven biển Bắc Bộ.

Đình đã được Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia từ năm 1962 về tiêu chí kiến trúc nghệ thuật.

Ngôi đình An Cố ngày nay, theo truyền thuyết được dựng đầu thời Mạc. Hậu chủ hưng công là Tiến sĩ Nguyễn Thế Ân. Tương truyền ông là một bậc thâm viễn, một chính khách nhìn xa, trông rộng; buổi đầu xuất gia là môn khách cho thế tử Lê Chiêu Tôn.

Một số thông tin lịch sử

Một số thông tin lịch sử

Năm 1516, Hoàng đế Lê Tương Dực bị triều thần Trịnh Duy Sản giết hại; đình thần chọn dòng đích của Cẩm Giang Vương Lê Sùng (Anh ruột vua Lê Tương Dực) tôn làm vua; từ đó ông thành cánh tay phải của vua Lê Chiêu Tôn. Không may, đời đang lúc nhiễu nhương, triều thần chia bè, kết đảng, các phe cánh đánh nhau triền miên; trong đám danh thần như Nguyễn Hoàng Dụ, Nguyễn Kính,.. Mạc Đăng Dung được lòng người quy thuận, trong lúc ấy thì vua bạc nhược; nay nghe dèm pha, mai nghe thỉnh thác, khi tin tướng này, khi chèn tướng khác,… Nguyễn Thế Ân đành theo lòng người mà hướng theo Mạc Đăng Dung.

Năm 1526 Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tôn; sau đó ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Ngày 16 tháng 6 năm 1527 (âm lịch) đăng quang làm vua; phong cho Nguyễn Thế Ân chức Trung Quan, hàm Ly Quốc công, coi như công thần bậc nhất trong việc mở vương triều.

Quá trình xây dựng

Quá trình xây dựng

Trước đó, Nguyễn Thế Ân vâng mệnh vua Lê Chiêu Tôn định xây thêm một điện lớn ở kinh thành Thăng Long. Việc chuẩn bị gần hoàn tất thì xảy ra biến loạn; vua Mạc đăng quang bãi việc ấy, hạ chiếu xây dựng Dương kinh (Thuỷ Nguyên – Hải Phòng). Trung quan Nguyễn Thế Ân xin đưa công trình đang làm dang dở ở Thăng Long về để trả nghĩa cho dân An Cố và ngoại tổ đã cưu mang ông thuở thiếu thời.

Vì điện cũ chưa xong, mới hoàn tất hai vì trung tâm, còn hai vì hồi vì mải lo việc nước; Trung quan cấp tiền cho dân An Cố lo viêc hoàn tất. Bấy giờ, thợ thuyền giỏi đang sửa sang kinh kì, tân tạo Dương kinh. Các cánh thợ khác không đủ tài theo được phong cách các vì đã hoàn tất nên đình An Cố còn có hai vì cạnh trung tâm không được chạm khắc gì cả.

Công trình kiến trúc

Công trình kiến trúc

Đình An Cố có tầm vóc một đại điện (vì thiết kế cho đại điện ở Kinh thành) bố cục kiểu chữ Đinh. Bái đình cao 0.32m, thềm dài 18 m, rộng 12 m. Đại bờ soi chỉ mớ, trổ hoa chanh. Hai đỉnh hồi đắp ngọc long lớn, cao 0.6 m, dài 1.2m; miệng lớn, răng nhọn ngậm chặt bờ nóc, mắt tròn trợn ngược, mi nhọn như mác, bờm sắc như dao; dựng ngược như chông gai, hất ngược ra phía sau như cờ bay trong gió. Hai chân sau tỳ góc hồi, giống thế hổ ngồi; tạo dáng uy nghi cho đại đình trong những ấn tượng đầu tiên.

Hệ thống bờ cánh, bờ đao cũng soi hai tầng chỉ mớ, trổ hoa chanh; góc bờ cánh đắp nghê thần, dàn đao guột đắp, rồng chầu, phượng múa; nghê thì tư thế hiên ngang, bờm rồng, mắt hổ, chân ôm quả cầu, chân vờn mây cuộn, chân đạp hoa chanh. Đao phượng mỏ dài, bờm xoắn, cánh sải như chim phượng, đuôi dài như chim công. Đao rồng: Râu bờm phất phới, cổ dài vươn cao, cưỡi tản vân như đang cất cánh bay.

Thủ từ đình cho biết, bộ cửa bức bàn cũ được chạm khắc hoa văn kỳ công qua thời gian đã bị hỏng. Khi trùng tu, thợ mộc không thể bắt chước được những nét chạm của người xưa nên đành thay bằng bộ cửa trơn.

Giá trị văn hóa đình An Cố

Giá trị văn hóa đình An Cố

Năm 1962, Đình An Cố và chùa Keo (huyện Vũ Thư) là 2 di tích đầu tiên của tỉnh; được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa Cấp quốc gia. Ngày nay, đình An Cố trở thành viên ngọc quý trong các di sản kiến trúc văn hóa thời Lê – Mạc.

Bất kỳ ai khi đặt chân đến nơi đây đều cảm nhận được một làng quê thanh bình với hình ảnh “Cây đa, giếng nước, sân đình”. Ngoài đình An Cố, thì nơi đây còn lưu giữ được 1 giếng cổ của làng. Giếng làng nơi in dấu nét văn hóa sinh hoạt cộng đồng làng xã xưa.

Ngôi nhà cổ đặc trưng của vùng quê ven biển này rất đỗi giản dị; nhưng nó đã mang trong mình nhiều “chứng tích”. Nếp nhà cổ đã gắn kết biết bao thế hệ trong mỗi gia đình. Và trở thành một nét đặc trưng mà ít nơi nào có được như hàng trăm nếp nhà cổ ở An Cố nay.

Làng An Cố xưa, vẫn mang trong mình nhiều giá trị văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật lâu đời. Người dân An Cố sống một cuộc sống thanh bình, họ hăng say lao động; phát huy lợi thế cây trồng chủ lực tại địa phương với nghề trồng thuốc lào; mang lại cho họ một cuộc sống đủ đầy; và gìn giữ nét đẹp văn hóa của làng quê vùng ven biển…

Nguồn: Didulich.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sự kiện - Lễ hội