Nhắc tới Bắc Ninh không thể không nhắc tới Hội Lim- lễ hội thường niên

Nhắc tới Bắc Ninh không thể không nhắc tới Hội Lim- lễ hội thường niên

Mỗi dịp đầu xuân về, mọi người đều háo hức và mong chờ những lễ hội thường niên ở nhiều nơi. Một trong những lễ hội truyền thống nổi tiếng mà ai cũng biết đó là Hội Lim Bắc Ninh. Đây là một tụ điểm xã hội của các làng cổ xung quanh và hai bên sông lớn, là một lễ hội lớn trong vùng và thể hiện sâu sắc nghệ thuật, văn hóa và tín ngưỡng tâm linh của người dân Bắc Kinh.

Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ cứu nước, để bảo vệ Tổ quốc, phải đến mấy chục năm sau công cuộc đổi mới, Hội Lin mới mở ra. Ngày nay, lễ hội âm nhạc khai mạc vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm. Trước sự mở rộng về diện tích và quy mô, phải nói rằng Lễ hội Rừng Sác là một lễ hội có quy mô lớn, được tổ chức chu đáo.

Nguồn gốc của Hội Lim xuất phát từ đâu?

Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau.

Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương.

Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục.

Những câu chuyện còn được lưu giữ tới ngày nay

Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng.

40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi.

Hội Lim Bắc Ninh thì người ta thờ những ai?

Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm,

Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu; người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh; là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày; (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13; để có mặt tại hội Lim trong chính hội.

Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt; mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ; loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim; (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà; trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng; giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi; làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị.

Truyền thống lâu đời được kế thừa tới ngày hôm nay

Truyền thống lâu đời được kế thừa tới ngày hôm nay

Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao; đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm; theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao; là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu; nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy; một lòng ngóng trông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát; chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.

Lấy than, quạt nước, tiễn trà người xơi.

Trà này ngon lắm người ơi,

Người xơi một chén cho tôi bằng lòng.

Và đến lúc phải về, cuộc chia tay thật khó dứt; vì lời ca bao giờ cũng như níu chân khách lại:

Người ơi, người ở đừng về…

Hội Lim là một lễ hội truyền thống chắc chắn những người yêu thích du lịch; hay cả những người yêu nét đẹp văn hóa dân tộc cũng nên trải nghiệm. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn; khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách các ông, các bà tổ chức hội Lim cũng thật đặc biêt; mỗi biểu tượng, cử chỉ như mang trong mình thứ gì đó tinh tế lạ thường của ngừoi kinh Bắc. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà Quan họ trở thành văn hóa phi vật thể; nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Phần lễ của hội thì bao gồm những gì?

Hội Lim đi vào lịch sử và tồn tại và phát triển cho đến ngày nay; được hàng tổng chuẩn bị tập duyệt rất chu đáo từ ngày 9 và 10; rồi được diễn ra từ ngày 11 đến hết ngày 14 tháng giêng. Chính hội là ngày 13, với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng; các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng; lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy. Trong các nhà thờ họ Nguyễn, họ Đỗ ở làng Đình Cả; dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân.

Hội Lim là lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc, với những hoạt động lễ và hội phong phú; gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh; của các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh.

Hội Lim đi vào lịch sử và tồn tại và phát triển cho đến ngày nay

Hội thi hát diễn ra khoảng gần trưa; được tổ chức theo hình thức du thuyền hát quan họ. Tại một hồ nước nhỏ sát bên cánh đồng làng Lim; chiếc thuyền hình rồng được sơn son thiếp vàng rời bến; trong những câu hát đậm đà nghĩa tình. Một bên thuyền là các liền chị; đối diện là những em nhỏ súng sính trong những tà áo tứ thân. Các liền anh thì đứng hoặc ngồi sát hai phía đầu và cuối thuyền. Tối ngày 12 sẽ là đêm hội hát thi quan họ giữa các làng quan họ. Mỗi làng quan họ được dựng một trại tại phần sân rộng của đồi Lim. Đây là phần hội hay nhất của cả lễ hội Hội Lim.

Kết

Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa; với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước; tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng; lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật; cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian; như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội.

Về với Hội Lim là về với một trời âm thanh, thơ và nhạc náo nức không gian đến xao xuyến lòng người. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách chơi hội của người quan họ vùng Lim cũng là cách chơi độc đáo, mỗi cử chỉ giao tiếp đã mang trong nó một sắc thái văn hoá cao.

Lễ hội diễn ra khắp các làng xã trong tổng Nội Duệ, trung tâm là núi Hồng Vân, với nghi thức tế lễ rước xách uy nghiêm, hùng tráng và nhiều trò vui, đặc sắc mà hấp dẫn nhất là đánh cờ người, tổ tôm điếm, thi dệt vải, thi làm cỗ và đón bạn, ca hát Quan họ.

Nguồn: Vntrip.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sự kiện - Lễ hội