Tại sao quan họ Bắc Ninh lại được ghi danh là di sản văn hóa nổi tiếng?

Tại sao quan họ Bắc Ninh lại được ghi danh là di sản văn hóa nổi tiếng?

Cứ mỗi độ xuân thu về, người dân 49 làng Quan họ gốc Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay) dù ở đâu cũng trở về quê, ở đình, chùa, lễ hội. rất độc đáo bởi vì chúng đã được liên kết với các buổi biểu diễn Quan họ trong nhiều thế hệ. Việt Nam là một trong những quốc gia được biết đến với kho tàng văn hóa vô cùng phong phú, đặc sắc và mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Yếu tố đặc biệt làm thay đổi hình ảnh văn hóa Việt Nam chính là di sản văn hóa nổi tiếng thế giới được UNESCO công nhận.

Trong đó, nổi tiếng nhất là toàn bộ văn hóa Hà Bắc Ninh với làn điệu đặc sắc, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người từng nghe qua câu này. Cùng xem di sản Quan họ Bắc Ninh có điều gì đặc biệt mà thu hút người nghe như thế này nhé.

Nguồn gốc quan họ Bắc Ninh được bắt nguồn từ đâu?

Nguồn gốc quan họ Bắc Ninh được bắt nguồn từ đâu?

Vì ra đời từ rất lâu về trước nên Quan họ Bắc Ninh có rất nhiều câu chuyện kể về thời điểm ra đời, có ý kiến cho là Quan họ có từ thế kỷ 11, số khác cho là từ thế kỷ 17, nhưng tất cả, các công trình khảo sát, nghiên cứu từ trước tới nay tuy có khác nhau nhưng đều đã khẳng định giá trị to lớn của di sản văn hóa phi vật thể Quan họ, đặc biệt là dân ca Quan họ, loại hình nghệ thuật được coi là cốt lõi của văn hóa xứ Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.

Theo điều tra của Sở văn hóa Hà Bắc (thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) thì trước cách mạng tháng Tám năm 1945 có 49 làng quan họ rải rác ở các huyện Tiên Sơn, Yên Phong, Quế Võ, Việt Yên và thị xã Bắc Ninh. Mỗi làng quan họ ở Bắc Ninh lại có nét độc đáo riêng.

Dân ca quan họ Bắc Ninh thực chất có nghĩa là gì?

Dân ca Quan họ Bắc Ninh là một hình thức hát giao duyên; giữa các liền anh liền chị. Đây là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng.

Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the; và những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao; cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm; mà vẫn đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người hát Quan họ.

Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, trong sách “Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam”; có thể chia hát quan họ thành những dạng sau:

  • Hát quan họ ở hội còn gọi là hát Hội.
  • Hát quan họ ở đám còn gọi là hát Mừng.
  • Hát quan họ ở cửa đình, cửa đền còn gọi là hát Thờ hát Cầu.
  • Hát quan họ tại nhà giữa hai nhóm quan họ trai gái mời nhau còn gọi là hát Canh.

Trong các dạng hát quan họ kể trên, hát hội và hát canh; là hai hình thức hát quan họ nổi bật có giá trị văn hóa cao.

Độc đáo trong trang phục của Quan họ Bắc Ninh

        –          Hát quan họ tại nhà giữa hai nhóm quan họ trai gái mời nhau còn gọi là hát Canh.

Trai thường mặc áo lụa, áo the, quần sớ, khăn xếp; gái thì mặc mớ bảy mớ ba, áo tứ thân nhiều điều nhiều tía, yếm đào xẻ con nhạn; thắt lưng hoa đào, hoa lý, đeo khuyên vàng xà tích. Khi hát ở ngoài trời, nam thường che ô; còn nữ che nón thúng quai thao để tăng thêm vẻ lịch sự duyên dáng.

Cách hát của quan họ Bắc Ninh có gì đặc biệt?

Nhìn chung trong Quan họ người ta bao giờ cũng hát đôi. Khi một đôi trong Quan họ bạn hát thì bên kia cũng chuẩn bị một đôi; để hát đối lại. Chính vì vậy hát Quan họ là loại hát đối đáp, hát giao duyên. Những người hát Quan họ thường được gọi là liền anh, liền chị. Kết cấu của mỗi điệu hát lại được hình thành; từ những lễ kết nghĩa. Lễ kết nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình; hoặc những lời thề thốt. Sau đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm.

Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp; anh Cả – chị Cả, anh Hai – chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư… Lời ca trong quan họ chủ yếu nói về tình yêu nam nữ; sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không hề nghĩ đến chuyện yêu nhau; mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác; hay có khi chỉ một vài năm. Địa điểm ca hát thường là ở sân nhà, trước cửa đình, cửa chùa;  dưới gốc đa, bên sườn đồi, trên thuyền, bến nước…

Cách hát của quan họ Bắc Ninh có gì đặc biệt?

Theo quan niệm của người Quan họ, nghệ nhân là những ngưòi có kỹ năng hát; “vang, rền, nền, nẩy” điêu luyện, thuộc nhiều bài, nhiều “giọng” Quan họ. Họ chính là những bậc thầy dân gian thực hành việc sáng tạo; lưu giữ và trao truyền vốn di sản quý báu đó cho các thế hệ mai sau; nên rất xứng đáng được tôn vinh.

Quan họ Bắc Ninh trong xu thế xã hội

Ngày nay, trước sức ép của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế; quốc tế hóa về văn hóa và sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng, nhiều ưu thế của các loại hình văn hóa; nghệ thuật, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác; Quan họ Bắc Ninh cổ cũng phải đối mặt với một thách thức lớn là nguy cơ bị mai một; thậm chí có thể bị mất hẳn nếu không kịp thời có biện pháp bảo vệ lâu dài cho thế hệ trẻ.

Bởi vậy, lề lối sinh hoạt ca hát Quan họ cổ, những giọng hát cổ với kỹ thuật “vang, rền, nền, nẩy” vốn đã làm nên giá trị đặc sắc của dân ca Quan họ hiện đang lưu tồn trong trí óc và trái tim say nghề của các cụ “Liền anh, Liền chị” nay đã trạc tuổi 70 đến 90 rất cần được trao truyền và tiếp nối.

Cho tới nay, hằng năm cứ từ ngày mồng 4 tháng giêng âm lịch; các làng quan họ Bắc Ninh bắt đầu rộn ràng tiếng hát của các liền anh liền chị; để chuẩn bị cho ngày hội quan họ. Những câu ca quan họ mộc mạc, nhưng rất trọng nghĩa tình; giống như con người của vùng quê Kinh Bắc. Ngày 10 và 11 tháng giêng âm lịch, ở Bắc Ninh thường tổ chức những cuộc thi hát quan họ.

Tìm hiểu thêm về quan họ trong lịch sử và cuộc sống

Ngày 10 và 11 tháng giêng âm lịch, ở Bắc Ninh thường tổ chức những cuộc thi hát quan họ.

Ý nghĩa của từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến giải về “Quan họ” xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”).

Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.

Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa “chơi Quan họ” bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian.

Kết

Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là “quan hệ” của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.

Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận[1]. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa “liền anh” (bên nam, người nam giới hát quan họ) và “liền chị” (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát.

Nguồn: Vntrip.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sự kiện - Lễ hội